Xưa, cách nay cũng không phải là xa lắm, cái thủa mà thế hệ 7x chúng tôi có không ít người “có duyên” được sinh ra trong thời chiến ( thậm chí còn ngay trên chiến hào hoặc trong hầm trú ẩn tránh bom, pháo quân thù). Chính vì vậy, có thể kể như chúng tôi là thế hệ được may mắn, lành lặn chứng kiến đất nước được chuyển mình từ thời chiến sang thời bình. Chúng tôi cứ thế lớn lên cùng năm tháng, trong sự kỳ vọng xen lẫn thấp thỏm của thế hệ cha anh vừa rời chiến trường trở về. Những năm tháng cuối cùng của thời bao cấp, khó khăn chất chồng cũng chẳng thể nào cản được bước tiến của dân tộc Việt.
Lúc còn thơ, khi chưa đọc rành con chữ, văng vẳng bên tai chị cả học bài: “ Chiều Hậu Giang tù và dậy rúc, phèng la kêu, trống giục vang đồng . . .” rồi đến anh hai ngồi la ra rả ( có ý chống đối bố bắt ngồi học hết mới được đi chơi bi): “ Tháng tám, bốn mươi năm. Dân ta tổng khởi nghĩa. Đứng lên cướp chính quyền …”. Chưa hết, lại còn Tre Việt Nam, …. Tre giữ làng giữ nước, Tre xung phong vào xe tăng, đại bác quân thù. Chẳng hiểu gì hết ( bé quá mà), nhưng nghe cũng thấy cái gì đó rất khó nói thành lời. Và thật kỳ lạ, không hiểu tại sao khi thế hệ giữa đến cuối của 7x không còn được học những bài đó nữa mà đến tận hôm nay, khi ngồi viết bài này thì gần như trong tâm khảm - những câu chữ cứ chen nhau dội về. Lạ kỳ chưa ? Những “ Bà má Hậu Giang”, “ Tre Việt Nam” ? không nhớ chính xác lắm, “ Lá cờ thêu 6 chữ vàng” . . . hiển hiện như mới vừa mới đọc hôm qua; cũng không đúng, vừa mới đọc xong rời tay. Vùng ký ức chợt dừng ở bài văn cấp I: Dân tộc ta có truyền thống vẻ vang, với lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần bất khuất chống giặc ngoại xâm . . . nhịp tim như chậm lại, cơ thể có cảm giác nóng bừng. Ra vậy, khí thế đó đang được nhắc nhớ, ngân lên trong não và sục sôi trong huyết quản.
Quả là khó lý giải, một trạng thái tinh thần hình như đang ngủ quên, hình như đang chìm xuống giữa bao nhiêu thứ lo toan vụn vặt đời thường: cơm, áo, gạo. tiền, . . . bao nhiêu thứ bon chen khác nữa trong xã hội. Vậy mà mỗi khi hướng về truyền thống đánh giặc giữ nước của cha ông thì vừa trân trọng vừa kiêu hãnh dâng trào. Cái cảm giác đó không hề giống với những tràng tiếng la “dzô” trước khi cụng ky trong đám cưới hay những bữa tiệc vui ở nhà hàng, lại càng không giống khi bản thân cầm phong bao phần thưởng khá nặng ( vì có thành tích tốt với đơn vị sử dụng) trong tràng pháo tay tán thưởng của tập thể đồng nghiệp. . . “ Nó” chỉ ngân lên khi đội tuyển hoặc cá nhân nào đó giành được thành tích mà tên tuổi được vinh danh đồng lượt với tiếng quốc ca và nhịp cùng tiến lên với lá cờ đỏ sao vàng. Không, không chỉ có vậy, “ Nó” còn góp phần hình thành tiếng hô “đánh” phát ra từ miệng và lồng ngực của cả trăm bô lão dự hội nghị Diên Hồng. “ Nó” chảy nóng và nhanh trong huyết quản của mỗi người mang dòng máu Việt khi nghe tin ở nơi xa đó, vẫn còn máu của Dân tộc Việt phải đổ vì những áp bức bất công hay vì những âm mưu đê hèn của kẻ thù. “ Nó” đã, đang và sẽ luôn luôn sống dậy một khi tổ quốc lâm nguy, một khi non sông gấm vóc này bị quân thù chà đạp – khi dân tộc ta không thể dĩ hòa vi quý mà yên hưởng hòa bình độc lập - ấm no - hạnh phúc, những quyền cơ bản nhất của bất kỳ công dân nào trên quả đất này. Chẳng phải tìm đâu xa vì “ Nó” sẵn có ngay trong cơ thể mỗi chúng ta. Và đến lúc này, hẳn ai đó trong chúng ta đều hiểu, tên của “ Nó” chính là: Lòng yêu nước.